Hai cha con bác sỹ Phạm Gia Triệu và Phạm Hoà Bình từng cùng là Thiếu tướng, Phó giám đốc BV Trung ương Quân đội 108, những chuyên gia đầu ngành về phẫu thuật thần kinh.
Bác sỹ quân y đầu tiên được phong Anh hùng LLVTND
Mới đây, tôi gặp lại Thiếu tướng Phạm Hoà Bình, PGS, TS, thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó giám đốc BV Trung ương Quân đội 108 để tìm hiểu về 2 cha con ông. Họ là những bác sỹ quân y nổi tiếng trong lĩnh vực phẫu thuật thần kinh ở giai đoạn khác nhau của đất nước.
Qua đó tôi mới được biết, cha ông, GS Phạm Gia Triệu ngay từ tháng 1/1967 đã trở thành vị bác sỹ đầu tiên trong Quân đội được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trước đó, hai Anh hùng LLVTND của ngành quân y được phong năm 1956 là bộ đội tải thương và chiến sỹ quân y (làm hộ lý, y tá) chứ chưa có ai là bác sỹ.
PGS Phạm Hoà Bình kể tiếp: “Bố tôi là đại biểu Quốc hội khóa 6, khoá Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất (1976). Từ ngày tham gia Cách mạng (tháng 11/1945) cho đến khi mất (6/1990), có thể nói bố tôi chưa được hưởng thư thái, an nhàn để ôn lại các kỷ niệm của cuộc đời mình. Chính các bài báo viết sau này đã giúp anh em tôi hiểu về ông hơn”.
Năm 1943, Phạm Gia Triệu được công nhận là sinh viên nội trú dự bị (externe), rồi chính thức (interne des hôpitaux) của các BV Hà Nội, chủ yếu là BV Yersin (hay BV Phủ Doãn, BV Việt-Đức ngày nay) và BV De Lanessan (hay BV Đồn Thủy, nay là BV Trung ương Quân đội 108 và BV Hữu Nghị).
“Hồi ấy tại BV Yersin, người Pháp chỉ cai quản về hành chính, còn về kỹ thuật mổ xẻ, các bác sỹ và sinh viên Việt Nam hầu như quán xuyến tất cả. Người Pháp chỉ có giáo sư Huard mổ mỗi tuần 3 phiên và họ tỏ ra trọng thị tài năng phẫu thuật của người Việt Nam, tiêu biểu là cụ Hồ Đắc Di, cụ Vũ Đình Tụng và ông Tôn Thất Tùng. Các bác sỹ và sinh viên nội trú Việt Nam luôn là nòng cốt của mọi hoạt động khoa học kỹ thuật. Riêng sinh viên nội trú, mỗi BV chỉ có 3-4 người, thay nhau trực, xử trí các ca cấp cứu thời bình và các tai nạn trong thành phố. Họ học tập và làm việc vất vả, nhưng họ, trong đó có anh Triệu, mau chóng nắm được kỹ thuật mổ xẻ và kiến thức cũng sâu rộng thêm…” (theo ghi chép của bác sỹ Trần Trọng Vực).
Tháng 8/1945, cách mạng thành công. Chàng sinh viên y khoa Phạm Gia Triệu đang học nội trú ở BV De Lanessan. Theo quyết định của chính phủ, ông được công nhận tốt nghiệp bác sỹ y khoa.
Tháng 11/1945, ông tình nguyện nhập ngũ vào lực lượng quân y, làm Trưởng ban Quân y Đông Triều (cơ sở quân y đầu tiên của Đệ tứ Chiến khu), sau này là Quân y Trung đoàn 98.
Tháng 7/1949, ông được điều về làm Hiệu trưởng Trường Y tá trưởng (Bắc Giang); Viện trưởng Viện Thực hành, giảng viên Trường Quân y sỹ (Vô Tranh, Thái Nguyên)…
Tháng 5/1950 ông được kết nạp Đảng. Cũng trong năm đó, ông được cử làm đội trưởng đội điều trị đi phục vụ trận đánh Đông Khê và suốt Chiến dịch Biên giớí. Ông được Bác Hồ gửi thư khen và được tặng thưởng Huân chương.
Năm 1952, Phân viện 8 (tiền thân của BV 108) phát triển về quy ô, số giường bệnh tăng từ 100 đến 250, ông được điều động làm Phân viện trưởng.
Giàu sang phú quý là thứ luôn được lực lượng chiêu hồi phía Pháp dụ dỗ, mua chuộc người trí thức trẻ ấy, nhưng không khiến ông mềm lòng. “Giữa lúc ấy, lá thư chiêu hồi của sếp bốt Đông Triều bí mật đến tay anh Triệu. Phía Pháp chắc mẩm sẽ đón được ông đốc tờ trẻ, học trò yêu của quan 6, GS Huard. Anh Triệu đã mau chóng có thái độ dứt khoát báo cáo lên chỉ huy trung đoàn. Cuộc sống yên bình giàu sang đầy danh vọng không khuất phục nổi anh. Tấm bằng thạc sỹ y khoa mà lá thư hứa hẹn không lay chuyển nổi anh…” (theo tác giả Trần Nghiêm – “Lá thư chiêu hồi và tấm lòng kiên định“ – đặc san Sự kiện và nhân chứng số 28 (4/1996).
Đầu năm 1954, ông được điều tăng cường cho đội Điều trị 1 là đội Điều trị tiền duyên của Mặt trận Điện Biên Phủ… Tại chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với bác sỹ Bộ trưởng Bộ Thương binh Vũ Đình Tụng, ông tham gia chỉ đạo kỹ thuật mổ xẻ cho các cơ sở cấp cứu.
PGS Phạm Hoà Bình hồi tưởng về người cha với sự kính trọng đặc biệt khi cha ông từng bị con cái hỏi kiểu trẻ con hay thắc mắc. “Ấy là sau này, trong cuộc sống khó khăn, trẻ con chúng tôi thường ao ước các món quà ở nước ngoài gửi về cho gia đình ở Hà Nội. Họ hàng bố tôi có nhiều người sống ở Pháp. Khi tôi hỏi bố, sao không sang Pháp sống cho sướng, ông trả lời: Bố theo cách mạng vì không chịu được cảnh Tây làm nhục dân mình…”- PGS Hoà Bình kể.
Sang Liên Xô (cũ) 5 năm để bảo vệ luận án tiến sĩ, ông trở về nước năm 1960 và được giao trọng trách Viện phó Quân y Viện 108 phụ trách ngoại khoa kiêm Chủ nhiệm bộ môn ngoại Trường Sĩ quan Quân Y (5/1960). Ông còn là chuyên viên đầu ngành ngoại khoa quân y.
Cùng tập thể các bác sỹ quân y, ông đã hoàn thành nhiều đề tài nghiên cứu về dị dạng mạch máu não, vết thương sọ não do bom bi, áp xe não do vết thương hỏa khí… Đặc biệt, ông là chủ biên cuốn sách “Điều lệ xử trí vết thương chiến tranh”, được coi là kim chỉ nam cho các bác sỹ quân y.
Ông được vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước năm 2000 về khoa học và công nghệ với đề tài “Bảo đảm quân y QĐND Việt Nam trong chiến tranh cứu nước và giữ nước”.
Cặp cha con “hổ phụ sinh hổ tử” đích thực
Nếp gia phong của gia đình GS Phạm Gia Triệu cũng rất đặc biệt. Nơi chôn rau cắt rốn của GS Phạm Gia Triệu chính là làng Hành Thiện, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định. Nơi đây vốn nổi tiếng với sự xuất hiện của trên 400 tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài… thời phong kiến và cũng là quê hương của nhiều nhà nho, sĩ phu yêu nước.
Theo thống kê sơ bộ, ngôi làng này hiện có 206 tiến sĩ khoa học và tiến sỹ, GS và PGS được ghi tên trên bia đá, có 11 vị tướng trong quân đội, 3 Anh hùng LLVTND…
Tháng 8/1978, sau khi tốt nghiệp Đại học Quân y, bác sĩ Phạm Hoà Bình được điều về công tác tại Viện Quân y 108 và được phân công ngay về khoa B7 – khoa Phẫu thuật Thần kinh.
Ông nhớ lại: “Lúc đó, thương binh bị vết thương sọ não, cột sống của chiến tranh Biên giới Tây Nam, sau khi xử trí bước đầu ở Quân y Viện 175, được máy bay chuyển ra Viện Quân y 108 rất đông. Thương binh ngay khi về đến khoa B7 đều được tắm gội, cắt tóc, thay băng, thụt tháo… Sau đó, các vết thương được xử trí cơ bản: lấy dị vật, mảnh đạn, xử trí áp xe não, vết thương cột sống…Trong hoàn cảnh đó, bố tôi đã dạy tôi tất cả”.
…“Mỗi buổi sáng, ông dạy tôi khoảng 30 phút. Ông chọn tài liệu chuyên môn hoặc bằng tiếng Nga hoặc tiếng Anh dựa trên thực tế bệnh lý trong khoa B7. Đọc, phát âm cho chuẩn; phân tích câu và dịch cho đúng; giải nghĩa cho phù hợp và áp dụng ngay trên ca bệnh cụ thể để xem nên mổ xẻ, điều trị thế nào. Mỗi loại bệnh lý sẽ học liên tục trong mươi ngày.
Nhờ có phương pháp học như vậy, tôi không chỉ hiểu chuyên môn mà khả năng ngoại ngữ, vốn từ chuyên ngành cũng tiến bộ rất nhiều. Khi có ca mổ, ông vào xem và chỉ bảo cho tôi từng li từng tí. Ông đứng trông cho tôi mổ. Mỗi ca mổ, đặc biệt các ca bệnh phức tạp, ông gợi ý cho tôi suy nghĩ, tham khảo y văn, trao đổi tìm phương án mổ tốt nhất. Mỗi ca thất bại là một bài học lớn không quên. Không phải chỉ trong chiến đấu mà trong chuyên môn cũng rất cần sự dũng cảm để nhận ra thiếu sót. Ông đã dạy tôi cách tư duy rất thực tế, ngắn gọn, mạch lạc nhưng cũng rất khách quan, khoa học…”- PGS Hoà Bình hồi tưởng.
Đất nước ta, chỉ riêng trong lĩnh vực y học có rất nhiều cặp “hổ phụ sinh hổ tử” khác nữa như gia đình GS, bác sỹ Tôn Thất Tùng – Tôn Thất Bách. Đất nước vẫn luôn tự hào về những gia cảnh đặc biệt ấy. Nó hoàn toàn xa lạ với thứ nhồi nhét chức tước, quyền lực cho con mình mà xã hội ta đã và đang bất bình.
Tháng 8/1978, sau khi tốt nghiệp Đại học Quân y, bác sĩ Phạm Hoà Bình được điều về công tác tại Viện Quân y 108 và được phân công ngay về khoa B7 – khoa Phẫu thuật Thần kinh.
Ông nhớ lại: “Lúc đó, thương binh bị vết thương sọ não, cột sống của chiến tranh Biên giới Tây Nam, sau khi xử trí bước đầu ở Quân y Viện 175, được máy bay chuyển ra Viện Quân y 108 rất đông. Thương binh ngay khi về đến khoa B7 đều được tắm gội, cắt tóc, thay băng, thụt tháo… Sau đó, các vết thương được xử trí cơ bản: lấy dị vật, mảnh đạn, xử trí áp xe não, vết thương cột sống…Trong hoàn cảnh đó, bố tôi đã dạy tôi tất cả”.
…“Mỗi buổi sáng, ông dạy tôi khoảng 30 phút. Ông chọn tài liệu chuyên môn hoặc bằng tiếng Nga hoặc tiếng Anh dựa trên thực tế bệnh lý trong khoa B7. Đọc, phát âm cho chuẩn; phân tích câu và dịch cho đúng; giải nghĩa cho phù hợp và áp dụng ngay trên ca bệnh cụ thể để xem nên mổ xẻ, điều trị thế nào. Mỗi loại bệnh lý sẽ học liên tục trong mươi ngày.
Nhờ có phương pháp học như vậy, tôi không chỉ hiểu chuyên môn mà khả năng ngoại ngữ, vốn từ chuyên ngành cũng tiến bộ rất nhiều. Khi có ca mổ, ông vào xem và chỉ bảo cho tôi từng li từng tí. Ông đứng trông cho tôi mổ. Mỗi ca mổ, đặc biệt các ca bệnh phức tạp, ông gợi ý cho tôi suy nghĩ, tham khảo y văn, trao đổi tìm phương án mổ tốt nhất. Mỗi ca thất bại là một bài học lớn không quên. Không phải chỉ trong chiến đấu mà trong chuyên môn cũng rất cần sự dũng cảm để nhận ra thiếu sót. Ông đã dạy tôi cách tư duy rất thực tế, ngắn gọn, mạch lạc nhưng cũng rất khách quan, khoa học…”- PGS Hoà Bình hồi tưởng.
Đất nước ta, chỉ riêng trong lĩnh vực y học có rất nhiều cặp “hổ phụ sinh hổ tử” khác nữa như gia đình GS, bác sỹ Tôn Thất Tùng – Tôn Thất Bách. Đất nước vẫn luôn tự hào về những gia cảnh đặc biệt ấy. Nó hoàn toàn xa lạ với thứ nhồi nhét chức tước, quyền lực cho con mình mà xã hội ta đã và đang bất bình.
Quốc Phong
Nguồn: https://vietnamnet.vn/ho-phu-sinh-ho-tu-cha-va-con-deu-la-tuong-quan-y-698963.html