Trải qua 81 tuổi đời, 63 năm hoạt động cách mạng, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã để lại nhiều bài học quý giá về tấm gương cống hiến vì đất nước, vì Nhân dân.
Cố Tổng Bí thư Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907 ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Mất ngày 30/9/1988 tại Hà Nội. Ông là người học trò tài năng, xuất sắc toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa là nhà chính trị, tư tưởng, lý luận; vừa là nhà hoạt động văn hóa, nhà báo, nhà thơ với tinh thần yêu nước nồng nàn, sự kiên trung của người chiến sĩ cộng sản suốt đời phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.
Sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước ở một vùng quê giàu truyền thống lịch sử và văn hoá, truyền thống của quê hương và gia đình đã bồi đắp và hun đúc nên lý tưởng cách mạng, năm 18 tuổi, đồng chí Trường Chinh tham gia phong trào yêu nước rồi gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Thông qua việc tìm hiểu tác phẩm “Đường kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc và Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ một thanh niên yêu nước, Trường Chinh đã trở thành người cộng sản.
Theo những dữ kiện lịch sự để lại, trong 10 năm hoạt động đầu tiên, dù trong hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn nỗ lực truyền bá cương lĩnh, đường lối của Đảng, góp phần bồi dưỡng lý luận và tinh thần cách mạng cho lớp người kế tiếp và nhân dân.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, địch tăng cường khủng bố, hầu hết các ủy viên trung ương bị bắt, bị giết hại, nhiều tổ chức đảng và quần chúng bị phá vỡ. Với cương vị Tổng Bí thư ở giai đoạn này, đồng chí đã cử cán bộ đi chắp nối liên lạc, khôi phục tổ chức. Phong trào cách mạng dần được khôi phục, củng cố và từng bước chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, đồng chí Trường Chinh rời Pác Bó (Cao Bằng) về xuôi, trực tiếp chỉ đạo phong trào và đề ra sáng kiến lập hệ thống liên hoàn các an toàn khu (ATK). Vào những thời điểm quyết định “sống còn” của dân tộc, đồng chí luôn có những quyết định quan trọng, tạo ra những bước nhảy vọt cho sự nghiệp cách mạng nước nhà. Nổi bật nhất là đồng chí đã dự báo chính xác việc Nhật đảo chính Pháp và sớm chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Cống hiến nổi bật của đồng chí Trường Chinh trong giai đoạn này là, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối cách mạng của giai đoạn mới (tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8) và đồng chí cũng là người trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện, đưa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến thành công.
Quan điểm của Đảng ta về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ được đồng chí Trường Chinh giải thích và phát triển trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong tác phẩm này, đồng chí đã trình bày một cách sáng tỏ các chặng đường của cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin và nâng cao ý chí cách mạng cho mọi người. Trong thực tiễn, không những đồng chí chú trọng nhiệm vụ kháng chiến mà còn rất chú ý đến nhiệm vụ kiến quốc, từng bước thực hiện “người cày có ruộng”, chuẩn bị những tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn đó và với thực tiễn cách mạng sinh động, cuộc kháng chiến chống dân Pháp của dân tộc ta đã giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử của dân tộc và của nhân loại.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với cương vị là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng chí đã cùng với tập thể Bộ Chính trị chuẩn bị và đề ra những quyết sách chiến lược, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn.
Cống hiến đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh là đặt nền móng cho công cuộc đổi mới. Năm 1986, với cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã đề ra chủ trương đổi mới. Quyết tâm đổi mới thể hiện ngay trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI của Đảng, đồng chí nói: “Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn”. Và Đại hội VI đã trở thành Đại hội Đổi mới, đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam, một bước ngoặt trong tư duy lý luận của Đảng.
Đánh giá công lao của đồng chí Trường Chinh, Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã nêu: “… trên cương vị là Tổng Bí thư của Đảng, từ năm 1941, cùng với Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, đồng đã có nhiều quyết sách đúng đắn, sáng tạo, nhất là trong những bước ngoặt của cách mạng, vai trò của đồng chí nổi bật là một trong những người lãnh đạo kiệt xuất đã đưa cuộc Cách mạng Tháng Tám đến thành công và đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng”.
Không chỉ là nhà lãnh đạo tài ba, Cố Tổng Bí thư Trường Chinh còn là một trong những nhà lý luận chiến lược của cách mạng Việt Nam với nhiều tác phẩm lý luận có giá trị: “Chống chủ nghĩa cải lương” (1935); “Vấn đề dân cày” (viết chung với đồng chí Võ Nguyên Giáp); “Chính sách mới của Đảng” (1941); “Kháng chiến nhất định thắng lợi” (1947); “Bàn về cách mạng Việt Nam” (1965); “Nắm vững ba bài học để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược” (1986),… Thông qua những tác phẩm đó, đồng chí Trường Chinh đã làm rõ hai vấn đề lý luận lớn. Một là, về phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam để góp phần định ra đường lối chiến lược và sách lược của Đảng. Hai là, về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt, đồng chí còn là tác giả của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 được xem là cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa, xác lập văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa), thể hiện tư duy, tầm nhìn, và sự quan tâm sâu sắc của Đảng ta trong phát triển văn hóa.
Từ khởi nguồn ấy, trải qua tiến trình lịch sử với rất nhiều biến động, các giá trị mang tính cương lĩnh của Đề cương vẫn giữ nguyên giá trị, sức sống và luôn được bổ sung hoàn thiện phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Cố Tổng Bí thư Trường Chinh còn là nhà báo, nhà thơ cách mạng nổi tiếng, là cây bút xuất sắc của báo chí cách mạng ngay từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Đồng chí đã kế tục xuất sắc sự nghiệp báo chí của Nguyễn Ái Quốc, tạo nên một văn phong chính luận cho nền báo chí cách mạng nước nhà. Những bài báo của đồng chí có tính chiến đấu cao, sức thuyết phục lớn, ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Ngay từ thời còn trẻ, đồng chí đã làm chủ bút nhiều tờ báo quan trọng của Đảng và tiếp đó là người chịu trách nhiệm trực tiếp những cơ quan ngôn luận của Đảng, như “Cờ Giải phóng”, “Sự thật”, “Nhân dân”, “Tạp chí Tiên phong”, “Tạp chí Cộng sản”… Ông còn là nhà thơ với bút danh Sóng Hồng, để lại gần 70 bài thơ thể hiện cảm xúc trước sự kiện của đất nước, với một tâm hồn luôn lạc quan, tin ở tiền đồ xán lạn của cách mạng Việt Nam. Thơ Sóng Hồng đánh dấu từng bước trưởng của cách mạng Việt Nam, của thơ ca cách mạng; có sức chiến đấu cao và lòng nhân ái sâu sắc.
Trải qua 81 tuổi đời, 63 năm hoạt động cách mạng, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã để lại nhiều bài học quý giá, có sức sống đến ngày hôm nay để những cán bộ, đảng viên và nhân dân soi chiếu, thực hiện.
Thứ nhất: Suốt đời hy sinh, phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân; không ngừng học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Thứ hai: Luôn kiên định ý chí kiên cường cách mạng, tính nguyên tắc và tổ chức kỷ luật, tình cảm chân thành với đồng bào, đồng chí, tính khiêm tốn, giản dị trong cuộc sống hằng ngày, phong cách làm việc khoa học, cẩn thận, cụ thể nhằm đạt hiệu quả thiết thực.
Thứ ba: Tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhân dân.
Thứ tư: Trước những thay đổi của tình hình thực tiễn trong nước và thế giới mang tính bước ngoặt phải đổi mới tư duy, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình, đề ra chủ trương phù hợp, dựa vào sức mạnh của Nhân dân để làm nên thắng lợi.
Trong không khí vui xuân, đón Tết Giáp Thìn 2024, kỷ niệm 117 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại và tôn vinh những cống hiến to lớn của ông để vững thêm niềm tin vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân đã lựa chọn.
Đình Dũng