Chùa Keo Hành Thiện

0
179

Chùa Keo (tên chữ: Thần Quang tự 神光寺) là một ngôi chùa ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.

Nguồn gốc

Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng từ năm 1061 dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hải Thanh (nay là xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.

Theo sáchTân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược (Phòng Địa chí – Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì ghi: Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viên Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành.[1]

Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời sang phía nam sông Hồng, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định). Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, về sau cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).

Kiến trúc

Ban đầu, chùa được xây dựng tạm trên nền đất của làng. Năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa được tu sửa hoàn chỉnh và có dáng dấp như ngày nay. Trong 400 năm tiếp theo, chùa nhiều lần được tu bổ lớn như vào các năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), Chính Hoà thứ 25 (1704), Thành Thái thứ 7 (1896) và đặc biệt từ năm 1962 chùa Keo đã được nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hoá,[cần dẫn nguồn] nên đã được tôn tạo nhiều lần.

Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng. Không gian chùa là cả một khu kiến trúc cổ to lớn, bề thế với 13 tòa rộng gồm 121 gian nối tiếp nhau soi bóng xuống mặt hồ lung linh huyền diệu. Hai bên đường kiệu lát gạch, kề liền hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40 gian bề thế.

Tuy không có gác chuông chồng diêm 3 tầng 12 mái đồ sộ như chùa Keo Thái Bình, gác chuông chùa Keo Hành Thiện cũng là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50. Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở.

Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoành phi câu đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo. Sau chùa là đền Thánh thờ Đức Thánh Tổ Đại pháp thiền sư Không Lộ, người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Nhân Tông.

Lễ hội

Lễ hội truyền thống tại ngôi làng Hành Thiện luôn là một nghi lễ trang trọng nhất. Từ vài ba ngày trước khi khai hội, toàn dân tham gia tổng vệ sinh đường làng ngõ xóm, treo cờ đại của các phe xóm ở hai đầu xóm và dọc đường Thổ lối trước. Các phe/xóm hạ thủy thuyền trải vào ngày khai hội hoặc trước đó vài ba ngày để trai làng chèo tập. Từ sáng sớm ngày khai hội, chuông khánh lớn và trống cái hoà tấu từng hồi dài vang động khắp xóm làng. Sau lễ nhập tịch mở cửa chùa, làng làm lễ thỉnh Phật, lễ tấu Thánh, lễ dâng hương và dựng cờ khai hội. Sau lễ khai hội, các vị trong Ban Tổ chức và Ban chỉ đạo Lễ hội cùng quan khách xã và huyện tới Nhà Lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh làm lễ dâng hương lên Người. Sau phần nghi lễ là các hoạt động văn hoá thể thao vui chơi giải trí quanh chùa.

Hội diễn ra từ ngày mồng 10 cho đến hết ngày 16 âm lịch tháng 9 hằng năm. Đặc biệt ở Lễ hội có môn Đua thuyền là một trong những môn thi cổ truyền và độc đáo nhất (mà không giống bất cứ môn thi của Lễ hội nào khác trên đất nước Việt Nam) Môn thi này gồm 10 người trên một chiếc thuyền mà dân làng Hành Thiện gọi là “trải”, điều khác biệt là Bơi Trải đứng (như chèo đò) gồm 9 người chèo và 1 người lái, có 15 trải như thế. Cuộc đua được tổ chức vào hai ngày Lễ hội chính: ngày 12 và 15 tháng 9 âm lịch. Song song với Bơi Trải là Phụng Nghinh, một trong những nghi thức quan trọng nhất của Lễ hội.

Nguồn: vi.wikipedia.org